Bài mới

Nhận xét mới

Showing posts with label shiki. Show all posts
Showing posts with label shiki. Show all posts

Hoa tân di sao

 photo tandi_zps9e4b05b1.jpg

辛夷咲く垣根もありて家まばら
kobushi saku kakine mo arite ie mabara
Shiki

Hàng rào cũng có
cây tân di nở hoa
nhà thành xa cách

Hoa tân di sao là một loài hoa thuộc chi Mộc lan, có tên khoa học là Magnolia stellata, rất gần với hoa tân di Magnolia kobus và trước đây được coi là một biến thể của tân di Magnolia kobus. Điểm khác biệt giữa hoa tân di sao và hoa tân di là hoa tân di sao có nhiều cánh, như hình một ngôi sao. Đây là loài hoa bản địa của Nhật Bản, nhưng ở Hàn Quốc cũng có. Ở Việt Nam tôi chưa nhìn thấy loài hoa này. Hoa tân di nở vào đầu mùa xuân, trước chút ít hoa anh đào nở. Hoa nở trước khi ra lá, cây có rất nhiều bông, và hoa tồn tại khá lâu trên cành, khác với loài dạ hợp cùng chi của Việt Nam.


 photo tandi1_zps0b96d15e.jpg


Tràng giang

Photobucket

川に沿うて行けど橋なし日の永き
kawa ni sote yukedo hashi nashi hi no nagaki 
Shiki

Đi ven theo sông
không cầu
ngày thật dài

Bài haiku của Shiki là sự liên tưởng giữa con sông và ngày. Con sông là chiều dài không gian, ngày là chiều dài thời gian. Cả hai đều dài, dường như đều không có điểm kết, và không có điểm cắt ngang. Không làm sao đi ngang qua sông, do không có cây cầu nào, cũng như không làm sao cắt ngang được ngày, chỉ có thể ven theo dòng chảy của chúng. Huy Cận viết Tràng giang: Không cầu gợi chút niềm thân mật / Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng, chỉ có cái dài của sông, cái rộng của trời, không có cái dài bất tận của thời gian. Tràng giang nghe có âm hưởng khác với trường giang. Tràng giang có cảm giác như là một điệp từ, ngân dài âm ra, man mác. Shiki đã thống nhất không gian với thời gian trong nỗi cô liêu của một cá thể trước sự bất tận của không-thời gian đấy.    


Tứ bình


Photobucket

門口の櫻を雲のはしめ哉
kadoguchi no sakura o kumo no hajime kana
Buson

Cổng nhà
hoa anh đào nở
mây khởi đầu xa


Photobucket

葉桜や昔の人と立咄
hazakura ya mukashi no hito to ritsu hanashi
Shiki

Anh đào trổ lá
người xưa
đứng hàn huyên


Photobucket

風色やしどろに植ゑし庭の秋
kazairo ya shidoro ni ueshi niwa no aki
Basho

Màu của gió
trồng loạn xạ
sân vườn thu


Photobucket

大雪の我家なればぞ花の春
oyuki no waga ie nareba zo hana no haru
Issa 

Đại tuyết
nhà tôi trở thành
mùa xuân của hoa


Hoa cần chuông

Photobucket

松の根に 薄紫の 菫かな
Matsu no ne ni usumurasaki no sumire kana
Shiki

Dưới gốc thông
phơn phớt tím
khóm hoa cần

Hoa cần chuông có tên khoa học là Viola cv. Misuzu thuộc chi hoa tím. Chi hoa tím có nhiều loài khác nhau, thậm chí có loài cho hoa màu vàng. Chi hoa tím ở Việt Nam chắc có, nhưng tôi không rõ loài cần chuông này ở Việt Nam có không.

Muống biển

Photobucket

朝顔や我に写生の心あり
asagao ya ware ni shasei no kokoro ari
Shiki

Hoa muống
trong lòng tôi
khắc mãi

Muống biển thực chất là một loài bìm bìm có tên khoa học là Ipomoea pes-caprae. Ở ven biển Việt Nam có rất nhiều loài này, bò loằng ngoằng trên bãi cát. Rau muống cũng là loài thuộc chi Ipomoea.

Xích đồng

Photobucket

桐の花咲くや都の古屋敷
Kiri no hana saku ya miyako no furuyashiki
Shiki

Hoa đồng nở
ngôi nhà cổ kinh đô
bày ra

Cây xích đồng (hay mò đỏ) có tên khoa học là Clerodendrum japonicum. Tên gọi xích đồng khá thống nhất với tên gọi trinh đồng của người Trung Quốc và phi đồng (higiri) của người Nhật Bản [xích, trinh, phi đều có nghĩa là màu đỏ]. Tuy cũng gọi là "đồng" nhưng cây không có liên quan với cây ngô đồng mùa thu lá rụng. Bài haiku của Shiki nói về cây ngô đồng.

Lá thu

Photobucket

ともし火の見えて紅葉の奥深し
tomoshibi no miete momiji no oku fukashi
Shiki

Những đốm lửa đèn
hiển hiện
trong đám lá đỏ rậm dầy

Thu xa

Photobucket

行く我にとどまる汝に秋二つ
yuku ware ni todomaru nare ni aki futatsu
Shiki

Tôi lên đường
anh ở lại
mùa thu đôi

Bài haiku này Shiki làm khi trở về Matsuyama, thành phố quê hương của ông. Ở đấy Shiki gặp lại người bạn của mình, nhà văn Soseki, đang dạy học. Hai người làm khá nhiều bài haiku trao đổi với nhau. Sau 50 ngày, Shiki lại lên đường, còn Soseki ở lại. Đấy là bối cảnh của bài haiku.

Bài haiku không có động từ "chia hai", kiểu thường thấy ở những cuộc chia tay, như "Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường", nhưng dường như ở đấy vẫn hiển hiện một "chia hai". Một mùa thu trở thành hai mùa thu, một mùa thu lên đường và một mùa thu ở lại. Hai mùa thu nhưng vẫn là một mùa thu. Đó là tình bạn, là chia tay.

Mẫu đơn

Photobucket

楊貴妃の寝起顔なる牡丹哉
Yooki Hi no neoki-gao naru botan kana
Shiki

Dung nhan Dương Quý Phi
vừa tỉnh giấc
hoa mẫu đơn

Tôi từng lấy làm quái lạ chốn này không thấy loại hoa mẫu đơn đẹp. Hôm nay bắt gặp loại hoa mẫu đơn khác. Tôi đoán đây là một loại của loài mẫu đơn Paeonia lactiflora. Loài mẫu đơn này có lá hoàn toàn khác loài mẫu đơn Paeonia suffruticosa. Mẫu đơn, giống như hoa hồng, có rất nhiều chủng loại, và thật khó mà biết hết được. Nếu Trung Quốc chọn mẫu đơn làm quốc hoa, rất dễ sẽ làm giống Mỹ, là không định pháp danh khoa học cho quốc hoa, bởi vì có quá nhiều loại.

Photobucket


Băng

Photobucket
透き通る氷の中の紅葉哉
Suki toru koori no naka no momiji kana
Shiki

Trong suốt
qua lớp băng
lá đỏ

Bức ảnh này có hai điểm tôi không thích. Tôi không chỉnh được tiêu cự vào đám lá nằm dưới lớp băng trong suốt. Tiêu cự của máy toàn tự động vào bề mặt lớp băng. Đám lá không có màu đỏ. Chúng có màu nâu xỉn. Thật ra tôi chưa từng nhìn thấy lá phong rụng lâu ngày có màu đỏ. Bài haiku của Shiki nói về lá đỏ, có lẽ chỉ do từ "lá đỏ" là tên gọi chung của lá phong, không phải chỉ màu sắc của lá. Liệu có bao giờ thấy được lá màu đỏ nằm dưới lớp băng trong suốt không? Nếu có hẳn đẹp lắm, nhất là lúc mặt trời chiếu xuống lớp băng.

"Xuân du phương thảo địa". Tôi không thấy phương thảo đâu. Chỉ thấy dòng suối băng trong suốt và chợt nhớ bài haiku của Shiki.

Tuyết rơi

Photobucket
声悲し鴉の腹に雪を吹く
Koe kanashi karasu no hara ni yuki o fuku
Shiki

Tiếng kêu bi thương
ngực quạ
tuyết tạt

Nửa vầng trăng

Photobucket
御佛に尻むけ居れば月涼し   
Mihotoke ni shirimuke oreba tsuki suzushi
Shiki

Quay lưng lại Ngự Phật
hiện sinh
vầng trăng lạnh

Vầng trăng tròn thường biểu đạt ý nghĩa viên mãn, một tầng giác ngộ tối thượng. Không phải hướng tới Phật, mà là quay lưng lại với Phật mới giác ngộ ra một vầng trăng viên mãn trên trời. Nếu cứ quay mặt vào với Phật thì không bao giờ thấy được vầng trăng ở trên bầu trời. Gốc của từ oreba (oru) là "cư", có nghĩa là ở, yên.

Khi tôi tới Kamakura, tình cờ tôi thấy một nửa vầng trăng vào buổi chiều, trên nền trời xanh thẳm. Trời vẫn còn rất sáng. Một nửa vầng trăng có nghĩa là còn xa mới tới viên mãn. Bài haiku của Shiki không cho biết vầng trăng trên bầu trời đấy tròn hay khuyết, nhưng tôi luôn nghĩ là vầng trăng tròn. Quay lưng lại với Phật để thấy viên mãn. Shiki không cho biết hình dạng của vầng trăng nhưng ông lại cho biết đó là vầng trăng lạnh. Viên mãn phải chăng là một sự lạnh lùng, không còn nồng ấm của hơi thở con người? Không còn là con người nữa thì viên mãn để làm gì? Để là một vầng trăng lạnh lẽo ư?

Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh,
Cứ một nửa, như đời anh, một nửa,
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ...

Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ ?
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau. 
                 Hoàng Hữu

Photobucket

Bồ Tát Địa Tạng

Photobucket
木下闇人驚かす地蔵かな
Koshita yami hito odorokasu Jizo kana
Shiki

Trong khoảng tối dưới cây
làm con người kinh ngạc
Bồ Tát Địa Tạng

Jizo là Bồ Tát Địa Tạng rất được yêu quí trong văn hóa Nhật Bản. Có thể gặp tượng Bồ Tát Địa Tạng ở khắp nơi trên đất nước Nhật Bản. Có thể là một chuỗi tượng, sáu tượng hay đơn độc một tượng. Tượng Bồ Tát Địa Tạng ở Nhật Bản đơn giản, không cầu kỳ và phức tạp. Bồ Tát Địa Tạng cứu độ sinh linh trong 6 con đường luân hồi (lục đạo luân hồi). Đó là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Atula, Người và Tiên. Sau 6 đường luân hồi là 4 bậc tới Phật: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Kinh điển Phật giáo chưa có khái niệm một đường luân hồi khác ngoài 6 con đường luân hồi trên: người cyber. Phải xếp người cyber vào thứ bậc luân hồi nào?

Anh tạo cho mình bộ mặt
Đằng sau đó anh đã sống, đã chết và lại hồi sinh
Bộ mặt của anh hôm nay
Có những vết nhăn của bộ mặt đấy
Chỉ có những vết nhăn là không có bộ mặt
Octavio Paz

Giang đảo

Photobucket
Enoshima ya kunpuu sakana no atarashiki
Shiki

Enoshima
gió thơm
lừng cá tươi

Tôi thấy bức tranh Giang đảo tình lam (Enoshima trời quang) trong bộ tranh Danh thắng bát cảnh của Toyokuni. Enoshima ngày nay dường như dài hơn xưa, trông giống như một con cá nổi trên mặt nước. Có thể góc nhìn khác nhau nên như vậy.

Photobucket

Thu họa

Photobucket
Kusabana wo egaku nikka ya aki ni iru
Shiki

Thảo hoa
họa mỗi ngày
mùa thu tới

Bài haiku này nghe nói Shiki viết khi ông đang ốm vào mùa thu. Mỗi ngày ông nằm trên giường bệnh vẽ những bông hoa mà bạn bè và người thân ông mang tới. Tôi đọc bài haiku này giữa mùa thu đang tới. Mỗi ngày mùa thu như là một người họa sĩ vẽ hoa lên các cây. Người ta hay nói đến thu thanh, tiếng thu. "Vạn lý thu thanh thôi lạc diệp / Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân", Muôn dặm tiếng thu thôi thúc lá rụng / Một trời sắc lạnh quét sạch những đám mây trôi nổi. Nguyễn Du viết câu thơ này bên bờ sông Lam trong nỗi bi thương khôn nguôi về thời thế và thân phận con người. Nỗi u buồn một mình giữa mùa thu. Mùa thu đến không chỉ có tiếng mà còn có hình. Mỗi ngày mới đến là một bức tranh sắc màu rực rỡ. Nhưng những màu sắc rực rỡ đấy vẫn không che nổi nỗi u buồn của mùa thu, như những bông hoa mà Shiki vẽ trên giường bệnh, như những hoa lá trên cây đang sắp giã cành. Đẹp và buồn. Rực rỡ và u uẩn. 

Hoa đào

Hoa đào

Chúng ta thường hay nghĩ hoa đào như một nét đặc sắc của riêng Việt Nam. Tôi nhớ có đọc ở đâu đấy thấy có vị chức sắc từng đề nghị mang hoa đào ra nước ngoài trong tuần văn hóa Việt Nam kiểu như người Nhật khoe hoa anh đào. Nhưng thật ra như tôi thấy hoa đào thật khó có thể nói là nét đặc sắc riêng biệt của người Việt Nam. Điểm thứ nhất, hoa đào ở Việt Nam rất ít chủng loại. Quanh quẩn cũng chỉ có đào bích, đào phai, đào thất thốn, đào rừng. Quảng quần phương phổ của Trung Quốc từng liệt kê tới 13 loại hoa đào khác nhau, như phi đào, nhật nguyệt đào, uyên ương đào, thập nguyệt đào... Đào bích hay bích đào chính là thiên diệp đào trong Quảng quần phương phổ. Cái tên bích đào thoạt nghe sẽ không hiểu là gì. Bởi vì hoa đào thường màu hồng hay đỏ, nhưng chữ bích lại có nghĩa là màu xanh ngọc bích. Làm gì có loại hoa đào màu xanh ngọc bích. Tôi nghĩ nhiều người nói về đào bích nhưng vị tất đã hiểu tại sao nó lại có tên là bích. Bích không phải chỉ màu sắc của hoa, mà để chỉ màu sắc của lá như tên gọi thiên diệp đào, đào ngàn lá. Quảng quần phương phổ nói bích đào có hoa "đạm hồng", hồng nhạt. Điểm này dường như khác với quan niệm ở Việt Nam, đào bích cho hoa có màu đỏ sậm. Quảng quần phương phổ nói có loại phi đào ở Tô châu sắc hoa rất khả ái. Phi là lụa đào, tức hoa đào rất đỏ. Thụy tiên đào cũng cho hoa đỏ sẫm. Điểm thứ hai, người Việt Nam sáng tác không nhiều văn chương, thơ ca nói về hoa đào. Nếu hoa đào là nét đặc sắc của Việt Nam thì tại sao không thấy nó được đưa vào nghệ thuật cổ điển của Việt Nam để khai phá những giá trị đặc sắc của chúng. Về hoa đào người Việt chỉ có một đóng góp, đó là kỹ thuật trồng đào, hãm hoa bằng hình thức "thiến đào". Đào ở Việt Nam có cái dở là không thấy trồng ở ngoài tự nhiên ngoại trừ loại đào rừng, đào cho quả. Các loại đào đều có tên khoa học chung là Prunus  persica.

Shiki có bài haiku sau:

Furusato wa itoko no ooshi momo no hana

Tôi dịch như sau:

Cố hương
là đông anh em họ
cùng với hoa đào

Ở thời hiện đại rất ít người không bao giờ xa quê hương bản quán. Khi nghĩ về cố hương, chúng ta hình dung như thế nào? Shiki nhớ về quê hương. Nơi đấy anh em trong họ còn có nhiều người, và đặc biệt là hoa đào nở. Hoa đào nở là một ký ức về quê hương, dấu ấn trong tâm khảm. Nó lưu mãi trong lòng trên những nẻo đường phiêu bạt. Nhưng đấy là ký ức. Giờ đây ở nơi quê hương đấy hoa đào nở như thế nào, có như xưa không, như cái thưở tụ tập cùng các anh em trong họ. Các anh em đấy còn đông như xưa không, hay đã rơi rụng đi rồi. Đấy là nỗi lòng của một người con xa quê hương. Anh ở xa và anh không còn biết quê hương giờ thực sự như thế nào. Hoa đào và  anh em trong họ là nỗi khắc khoải khôn nguôi về quê hương, về tuổi thơ, về những trò chơi thưở thiếu thời. Tất cả đã xa rồi, cả về thời gian và không gian. Chỉ còn cô đọng lại hai chữ "cố hương". Có một đồng nghiệp của tôi nói rằng anh ta không biết đâu là quê hương của anh. Gia đình anh thường xuyên di chuyển từ thành phố này sang thành phố khác. Ký ức của anh là những chuyến chuyển nhà. Di động và bất định. Không có hoa đào cũng như anh em trong họ. Không phải ai cũng có một cố hương.

Hoa đào

Quả gai lửa

Gai lửa

Hoa gai lửa nở vào cuối xuân và đến mùa thu kết quả. Nhìn hoa gai lửa không thôi thì không thể nào hiểu nổi tại sao cây lại có tên như thế. Nhưng khi thấy cây gai lửa kết quả thì sẽ hiểu ngay lập tức cái tên của nó. Cả cây là một bụi quả đỏ rực như lửa. Cây gai lửa này có tên khoa học là Pyracantha coccinea.

Bài haiku sau của Shiki:

Tori naite akai ko-no-mi wa koboshikeri

và bản dịch của tôi:

Tiếng chim hót
Chùm quả đỏ
Rớt xuống

Đọc bài haiku này không hiểu sao tôi toàn hình dung về truyền thuyết tiếng chim hót trong bụi cây gai, mặc dù tôi không biết Nhật Bản có truyền thuyết tương tự như vậy không. Con chim cất lên tiếng hót cuối cùng để lao mình vào những chiếc gai nhọn. Những quả gai lửa rớt xuống. Không, không phải những quả gai lửa rớt xuống, mà là chính những giọt máu của con chim bị gai đâm đang rớt xuống. Tiếng chim hót, những giọt máu đào trong hình dạng của quả gai lửa quyện vào nhau trong một truyền thuyết kỳ lạ.

Tất nhiên bài haiku của Shiki không nhất thiết phải có ý nghĩa như thế. Nhưng chẳng có lý do gì mà tôi lại không thể liên tưởng tới truyền thuyết lạ kỳ kia. Haiku luôn là những câu thơ mở, khiến ta có thể khám phá ra những vẻ đẹp bất tận, mới lạ như chưa từng bao giờ có.

Gai lửa


Quả nam thiên

Nam thiên

Hoa nam thiên nở vào mùa hè và đến mùa thu kết thành từng chùm quả. Chùm quả nam thiên trông cũng rất đẹp, như là hoa. Mùa thu không chỉ có lá vàng, không chỉ có hoa cúc, mà còn có cả những chùm quả đỏ. Tất cả đều là những đóa hoa của trời và đất.

Shiki có bài haiku sau:

Akaki mi no hitotsu koborenu shimo no niwa

Tôi dịch như sau:

Chùm quả đỏ
Một quả rơi
Xuống sân sương

Khi dịch bài haiku này tôi chợt nhớ tới mấy câu thơ của Lý Bạch:

Tương tư hoàng diệp lạc
Bạch lộ thấp thanh đài

Nhớ nhau lá vàng rụng
Sương trắng đẫm rêu xanh

Mùa thu của Lý Bạch có lá vàng, có sương trắng, có rêu xanh. Và ở đó là nỗi nhớ khôn nguôi. Mùa thu trong bài haiku của Shiki có chùm quả đỏ và một sân sương. Một quả trong chùm quả rơi xuống sân sương. Một chấm đỏ trên một nền sương trắng. Ở đấy có nỗi nhớ khôn nguôi không? Tôi không biết. Nhưng ở đấy là nỗi niềm tịch mịch, cô quạnh như cái chấm đỏ trên nền sân sương đấy. Đỏ và trắng lạnh. Cháy bỏng và cách xa. Một nỗi buồn man mác của mùa thu đã đến và lại sắp xa, như những giọt sương trên sân.

Bài haiku của Shiki chỉ nói về chùm quả đỏ, không nhất thiết phải là chùm quả nam thiên. Nhưng tôi nghĩ về chùm quả nam thiên, như thứ quả của một loại trúc trồng trong sân, cho lá đỏ và quả đỏ mỗi khi thu về. 
 

Nam thiên

Nam thiên


Bông phấn

Photobucket

Đây là bông phấn. Hoa có rất nhiều màu sắc khác nhau, từ trắng đến hồng, tím, vàng. Người Nhật gọi hoa này là bạch phấn hoa (oshiroi-bana). Có lẽ tên "bông phấn" có xuất xứ từ Nhật. Người Trung Quốc gọi hoa này là tử mạt lị. Mạt lị có nghĩa là hoa nhài, có lẽ vì hoa thoang thoảng thơm. Tên hoa trong tiếng Anh là four o'clock flower hay marvel of Peru. Có tên "hoa bốn giờ" vì hoa nở vào buổi chiều, tầm khoảng 4 giờ. Tên khoa học của hoa là Mirabilis jalapa.

Bài tanka sau của Masaoka Shiki trong tập Những bài ca làng trúc:

yo-arashi no
nagori todomete
utsubuke ni
taorete sakeru
oshiroi no hana

Tôi dịch như sau:

Trận cuồng phong suốt đêm
tả tơi rơi xuống
cả những bông vừa nở
hoa phấn


Photobucket


Hoa lăng tiêu

Hoa lăng tiêu

Hoa lăng tiêu được trồng ở rất nhiều nơi. Cứ đến giữa hè là hoa nở. Hoa có tên khá hay: lăng tiêu có nghĩa là ráng mây. Hoa có màu sắc tưởng như  màu của một ráng mây chiều. Tên khoa học của hoa là Campsis grandiflora.

Masaoki Shiki có bài haiku sau
 
nouzen ya hitotsu ru tare shi hana kadura

Bản dịch của tôi:

Hoa lăng tiêu
Những nhánh bông rủ xuống
Như những lọn tóc hoa

Bài haiku này liên tưởng rất hay. Những bông lăng tiêu mềm mại rủ xuống trông như những lọn tóc mai của những nàng con gái. Một kiểu tóc ngày xưa. Ngày nay không còn thấy những cô gái để tóc mai rủ xuống hai bên.
 


Hoa lăng tiêu