Bài mới

Nhận xét mới

Showing posts with label nghethuat. Show all posts
Showing posts with label nghethuat. Show all posts

Tranh sơn mài chùa Thiên Mụ của Nguyễn Gia Trí

Photobucket

Photobucket

Tôi biết đến bức tranh Chùa Thiên Mụ của Nguyễn Gia Trí có thể nói bằng một chữ duyên. Tôi được thuê đọc (trả phí theo Chuyên mục trả lời các câu hỏi) bài chữ Hán trên bức tranh. Lúc đọc đấy tôi không biết bài chữ Hán là một phần của bức tranh. Tôi cứ ngỡ đấy là một bức trướng, hoành phi hay thư pháp nào đấy. Khi đọc xong tôi mới được cho biết bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí và bài viết về nó. Tuy chỉ được xem qua ảnh chụp, tôi vẫn nghĩ rằng đấy là duyên.

Tôi không biết bức sơn mài nhìn thật ngoài đời như thế nào. Tôi không thể cảm thấy những đốm vàng li ti trên bức tranh đấy. Có thể nói đấy lại là hai chữ vô duyên. Nhờ đọc được bài chữ Hán trên bức tranh mà tôi tra ra được đấy là một khúc ca của Bắc Tông: khúc Phổ trần sát.

Khổ hải trung nghiệp thủy di mang
Ái hà gian hắc lưu hoảng dạng
Thùy thí na từ bi tuệ quang
Tế trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ hàng, chiêu linh huống

Khúc Phổ trần sát có nghĩa:

Trong bể khổ nước nghiệp mênh mang
Trên dòng Ái hà luồng nước đen sâu sóng sánh
Ai thí cho bao nhiêu ánh sáng của từ, bi, tuệ
Vượt qua trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ vượt qua, chiêu linh hồn ban cho

Giờ đây tôi thấy bức tranh mang ý nghĩa sắc nét: một Khổ hải đồ. Tôi tìm thấy trên mạng một bức Khổ hải đồ với bài Phổ trần sát viết ở trên. Bố cục của bức Khổ hải đồ có điểm gì đấy tương đồng với bức Chùa Thiên Mụ. Cũng một con thuyền trên một dòng sông nước, một bến bờ và khúc Phổ trần sát. Tất nhiên bức Chùa Thiên Mụ có tính nghệ thuật cao hơn, thâm ý hơn.

Dòng Hương trong bức Chùa Thiên Mụ giờ đây trở thành dòng Ái hà. Ái là một dạng thức của Thất tình. Trong kinh điển Phật giáo, Ái như một dòng sông. Con người nổi chìm nơi đấy, là nghiệp, là bể khổ. Bên kia bến bờ là giải thoát, vượt khỏi kiếp trầm luân. Dòng sông trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí không còn thơ mộng, đặc điểm cố hữu của dòng Hương, mà với những mảng vàng nhìn như một dòng sông dữ dằn như muốn nhấn chìm con thuyền mong manh đang tìm tới bến. Chùa Thiên Mụ trở thành bờ bên kia của dòng Ái hà, nơi cập bến qua bể khổ. Nhưng trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí, bờ giải thoát - chùa Thiên Mụ đấy nhìn sao thật ảm đạm và phôi pha. Nơi đấy không còn tình. Sự sống khô héo và tàn phai. Tôi nhớ tới bức tượng La Hầu La Đa ở chùa Tây Phương: khô héo, mỏi mệt và hoài nghi. Con đường tới cõi Phật, vốn đã khó khăn và gian nan, nhưng cái đích, nơi đến, nơi cập bờ đấy có thật là viên mãn, hay đấy cũng chỉ là ảo ảnh của một thực tại đầy khiếm khuyết và đấy cũng chỉ là một chốn phôi pha? Tôi nhớ tới câu kệ của Thiền sư Quảng Nghiêm: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ / Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Thoát khỏi tịch diệt rồi mới nói về tịch diệt, sinh vào cõi vô sinh rồi mới bàn về vô sinh. Ở chốn trần sát nói về giải thoát không khéo chỉ là lộng ngôn.  

Chùa Thiên Mụ và sông Hương chắc không phải là một chủ đề mới. Khổ hải cũng không phải là một chủ đề mới. Kết hợp hai chủ đề không mới thành một cảm hứng mới và đẹp. Phải chăng đó là điều kỳ diệu của nghệ thuật?

Photobucket


Phong cảnh với cú rơi của Icarus

Photobucket


Landscape with the Fall of Icarus

According to Brueghel
when Icarus fell
it was spring

a farmer was ploughing
his field
the whole pageantry

of the year was
awake tingling
near

the edge of the sea
concerned
with itself

sweating in the sun
that melted
the wings' wax

unsignificantly
off the coast
there was

a splash quite unnoticed
this was
Icarus drowning

William Carlos Williams

Phong cảnh với cú rơi của Icarus

Theo Brueghel
khi Icarus rơi xuống
đang là mùa xuân

một nông phu đang cày
thửa ruộng của mình
cảnh ngoạn mục thanh bình

của năm
được đánh thức nhói lên
ngay cạnh

gờ biển
hướng tới
chính nó

hấp nóng dưới mặt trời
làm tan chảy
chất sáp dính đôi cánh

không đáng kể
ngoài bãi biển
một tiếng tõm

hoàn toàn không nhận thấy
đó là
Icarus đang chìm

Icarus với khát vọng tự do thoát ra khỏi ngục tù. Tự do trên không trung bao la rộng lớn thật quyến rũ. Nhưng chính sự quyến rũ đấy đã làm sao nhãng tri thức và đẩy chàng trai Icarus rơi xuống biển. Bức tranh của Brueghel vẽ một mùa xuân ở mặt đất, nơi không có ngục tù giam cầm Icarus. Một phong cảnh thanh bình và quyến rũ. Nhưng không một ai nhận ra cú rơi xuống biến của Icarus. Người nông dân vẫn đang cày, người chăn cừu vẫn đang chăn cừu và những con tàu vẫn đang ra khơi. Không ai biết có một con người đang chết chìm vì khát vọng tự do của mình. Không phải những con người đấy bàng quan, không xúc cảm trước cái chết của một con người, mà là họ không nhận ra có một người đang chìm xuống. Bức tranh của mấy trăm năm trước và bài thơ của mấy chục năm trước chợt hiện về. Chỉ đáng tiếc tôi không dịch bài thơ hay hơn được. 


Lịch sử và nghệ thuật

Cách đây hai năm, trên blog này, tôi từng đã suy nghĩ về lịch sử và hư cấu nhân xem bộ phim Tần ca. Sau đấy tôi đã không triển khai tiếp suy nghĩ của mình. Giờ đây tôi lại thấy vấn đề của hai năm trước quay lại với mình. Bây giờ tôi có thể khẳng định hai điểm sau về quan điểm của tôi về nghệ thuật và lịch sử:
1. Nghệ thuật không phải là minh họa cho lịch sử (hay nói theo kiểu của Kundera: nghệ thuật không phải là tên hầu của sử gia).
2. Hư cấu lịch sử phải nằm trong ý đồ nghệ thuật và mang tính thẩm mỹ.

Các đoạn viết sau là suy nghĩ của tôi hai năm trước, giờ đây tôi tập hợp lại. Vấn đề tôi đặt ra hai năm trước vẫn là vấn đề của hôm nay và mai sau. Tôi không nghĩ là mình đã đặt ra vấn đề trước thời đại, nhưng rõ ràng cần phải có những quan điểm nhất quán về lịch sử và nghệ thuật, không chỉ của các nhà nghệ sĩ, mà còn phải của chính người thưởng thức nghệ thuật.

Tần ca, không phải là một phim xuất sắc. Nhưng kịch bản của bộ phim này khiến tôi suy nghĩ. Kịch bản không tuân theo sự thật lịch sử ở cấp độ thô sơ nhất, cho Doanh Chính làm bạn với Cao Tiệm Ly từ thưở mới sinh. Tác giả kịch bản đã thoải mái hư hấu những câu chuyện cho các nhân vật lịch sử. Ở Việt Nam điều này rất khó được chấp nhận. Tôi nhớ có đọc đâu đó hồi dựng vở Thái hậu Dương Vân Nga, con cháu của dòng họ Nguyễn Bặc, Đinh Điền đã phản đối rất dữ dội. Giữa lịch sử và nghệ thuật, đâu là ranh giới có thể vượt qua? Sự thật lịch sử ở chỗ nào có thể nhường bước cho hư cấu nghệ thuật? Tần ca là một ẩn dụ lớn, hư cấu từ lịch sử cho cuộc chiến dành lòng người thông qua âm nhạc như một tham vọng vừa mang tính bá độc, vừa mang tính hùng tráng. Đạo thanh âm liên thông với chính trị. Và do đó từ ngàn xưa ở phương Đông người ta vẫn luôn muốn vừa kiểm soát thanh âm, vừa tạo ra những tác phẩm bất hủ, vừa mang tính tụng ca, vừa mang tính chân trị. Có gì mâu thuẫn không?

Khi xem bộ phim Tần ca của Chu Hiểu Văn tôi đã tự hỏi đâu là giới hạn hư cấu có thể của nghệ thuật khi tiếp cận với lịch sử? Tần ca từng bị chỉ trích vì đã xuyên tạc lịch sử, cho Cao Tiệm Ly làm bạn nối khố với Tần Thủy Hoàng. Bộ phim từng bị cấm, nhưng sau đó lại được cho phép chiếu. Lịch sử và hư cấu nghệ thuật là một vấn đề phức tạp. Phức tạp không chỉ cho tác giả, mà còn cho cả công chúng và ứng xử của họ đối với tác phẩm. Thế nào là phải và thế nào là không phải?

Một sản phẩm tiêu dùng độc hại cho sức khỏe của người tiêu dùng bị cấm lưu hành sẽ không có ai phản đối. Chất độc bảng A cấm lưu hành đại chúng, cũng không có ai phản đối. Trần truồng ở nơi công cộng cũng bị cấm. Những cấm đoán này dường như rất hiển nhiên và dễ dàng chấp nhận. Nhưng một sản phẩm nghệ thuật bị cấm lưu hành hay lưu hành hạn chế thường tạo ra những phản cảm. Không hẳn vì những nguy hại của một tác phẩm nghệ thuật khó xác định hay xác định không được nhất quán, mặc dù thường là như vậy, mà là nghệ thuật dường như là một địa hạt đặc biệt có những đặc quyền được miễn trừ mặc dù rất khó xác định. Ngay cả những sản phẩm tiêu dùng được xác định là độc hại cho sức khỏe cũng chỉ dựa trên những hiểu biết của con người ở thời điểm hiện tại, có nghĩa là tính độc hại của những sản phẩm đó cũng có thể thay đổi theo thời gian. Giả sử như có một tác phẩm viết rằng Trần Hưng Đạo âm mưu cấu kết với quân Nguyên, hãm hại Trần Ích Tắc, buộc Trần Ích Tắc phải miễn cưỡng nhập Nguyên thì ứng xử của chúng ta với tác phẩm như vậy sẽ như thế nào? Tác phẩm như vậy có nguy hại là xuyên tạc lịch sử và gieo rắc những đánh giá các nhân vật lịch sử dựa trên sự xuyên tạc lịch sử, phá vỡ tính ổn định của văn hóa và truyền thống. Trong nhiều trường hợp, những xuyên tạc lịch sử trong các tác phẩm nghệ thuật lại được bỏ qua vì những lý do khác nhau. Vở kịch Thái hậu Dương Vân Nga đã xuyên tạc Nguyễn Bặc, Đinh Điền câu kết với nhà Tống. Đối với những công chúng không am hiểu lịch sử, vở kịch rất dễ gieo vào tri thức của họ rằng Nguyễn Bặc, Đinh Điền là những tên phản bội tổ quốc.Tôi luôn cảm thấy không ổn ở vở kịch này. Có thể xây dựng các nhân vật hư cấu câu kết với nhà Tống xâm lược hơn là xuyên tạc các nhân vật lịch sử làm việc này. Nhân danh cái gì chúng ta có thể gán cho một người vô tội tội phản bội tổ quốc dù chỉ là trong nghệ thuật? Nếu như một tác phẩm xuyên tạc về một nhân vật có thật cùng thời thì tác giả có thể bị kiện và tác phẩm sẽ bị cấm lưu hành vì tội xuyên tạc hay bôi nhọ, nhưng xuyên tạc một nhân vật lịch sử thì dường như đấy lại là vô can, lại là nghệ thuật. Người chết không thể đội mồ sống lại để khởi kiện tác giả. Đâu là giới hạn cho phép của nghệ thuật? Liệu nghệ thuật có quyền xuyên tạc thoải mái các nhân vật lịch sử? Các nhân vật lịch sử phải chịu khổ nạn vì nghệ thuật và họ không có quyền bảo vệ sự thật về mình trong nghệ thuật?

Ứng xử dân gian đối với các nhân vật lịch sử có thể phát lộ ra những cách tiếp nhận sự thật lịch sử khác. Vụ án Lệ chi viên của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ được dân gian sáng tác thành chuyện rắn báo oán. Bỏ qua những đặc điểm vay mượn có thể từ các nền văn hóa khác vốn là đặc điểm khá phổ biến của các câu chuyện dân gian, chuyện rắn báo oán có thể coi là một là một tác phẩm nghệ thuật tiếp cận lịch sử. Dân gian có thể thoải mái biến các nhân vật lịch sử thành rắn, thành hổ mà không gây ra những phản cảm về xuyên tạc lịch sử. Những chi tiết hư cấu mang tính phi thực như vậy tuy không phải là sự thật lịch sử nhưng cũng không xuyên tạc những nhận thức lịch sử về các nhân vật lịch sử được nói đến. Tức là ở đấy không có mâu thuẫn đối kháng giữa hư cấu và lịch sử.