Tôi biết đến bức tranh Chùa Thiên Mụ của Nguyễn Gia Trí có thể nói bằng một chữ duyên. Tôi được thuê đọc (trả phí theo Chuyên mục trả lời các câu hỏi) bài chữ Hán trên bức tranh. Lúc đọc đấy tôi không biết bài chữ Hán là một phần của bức tranh. Tôi cứ ngỡ đấy là một bức trướng, hoành phi hay thư pháp nào đấy. Khi đọc xong tôi mới được cho biết bức tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí và bài viết về nó. Tuy chỉ được xem qua ảnh chụp, tôi vẫn nghĩ rằng đấy là duyên.
Tôi không biết bức sơn mài nhìn thật ngoài đời như thế nào. Tôi không thể cảm thấy những đốm vàng li ti trên bức tranh đấy. Có thể nói đấy lại là hai chữ vô duyên. Nhờ đọc được bài chữ Hán trên bức tranh mà tôi tra ra được đấy là một khúc ca của Bắc Tông: khúc Phổ trần sát.
Khổ hải trung nghiệp thủy di mang
Ái hà gian hắc lưu hoảng dạng
Thùy thí na từ bi tuệ quang
Tế trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ hàng, chiêu linh huống
Khúc Phổ trần sát có nghĩa:
Trong bể khổ nước nghiệp mênh mang
Trên dòng Ái hà luồng nước đen sâu sóng sánh
Ai thí cho bao nhiêu ánh sáng của từ, bi, tuệ
Vượt qua trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ vượt qua, chiêu linh hồn ban cho
Giờ đây tôi thấy bức tranh mang ý nghĩa sắc nét: một Khổ hải đồ. Tôi tìm thấy trên mạng một bức Khổ hải đồ với bài Phổ trần sát viết ở trên. Bố cục của bức Khổ hải đồ có điểm gì đấy tương đồng với bức Chùa Thiên Mụ. Cũng một con thuyền trên một dòng sông nước, một bến bờ và khúc Phổ trần sát. Tất nhiên bức Chùa Thiên Mụ có tính nghệ thuật cao hơn, thâm ý hơn.
Dòng Hương trong bức Chùa Thiên Mụ giờ đây trở thành dòng Ái hà. Ái là một dạng thức của Thất tình. Trong kinh điển Phật giáo, Ái như một dòng sông. Con người nổi chìm nơi đấy, là nghiệp, là bể khổ. Bên kia bến bờ là giải thoát, vượt khỏi kiếp trầm luân. Dòng sông trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí không còn thơ mộng, đặc điểm cố hữu của dòng Hương, mà với những mảng vàng nhìn như một dòng sông dữ dằn như muốn nhấn chìm con thuyền mong manh đang tìm tới bến. Chùa Thiên Mụ trở thành bờ bên kia của dòng Ái hà, nơi cập bến qua bể khổ. Nhưng trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí, bờ giải thoát - chùa Thiên Mụ đấy nhìn sao thật ảm đạm và phôi pha. Nơi đấy không còn tình. Sự sống khô héo và tàn phai. Tôi nhớ tới bức tượng La Hầu La Đa ở chùa Tây Phương: khô héo, mỏi mệt và hoài nghi. Con đường tới cõi Phật, vốn đã khó khăn và gian nan, nhưng cái đích, nơi đến, nơi cập bờ đấy có thật là viên mãn, hay đấy cũng chỉ là ảo ảnh của một thực tại đầy khiếm khuyết và đấy cũng chỉ là một chốn phôi pha? Tôi nhớ tới câu kệ của Thiền sư Quảng Nghiêm: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ / Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Thoát khỏi tịch diệt rồi mới nói về tịch diệt, sinh vào cõi vô sinh rồi mới bàn về vô sinh. Ở chốn trần sát nói về giải thoát không khéo chỉ là lộng ngôn.
Chùa Thiên Mụ và sông Hương chắc không phải là một chủ đề mới. Khổ hải cũng không phải là một chủ đề mới. Kết hợp hai chủ đề không mới thành một cảm hứng mới và đẹp. Phải chăng đó là điều kỳ diệu của nghệ thuật?
Tôi không biết bức sơn mài nhìn thật ngoài đời như thế nào. Tôi không thể cảm thấy những đốm vàng li ti trên bức tranh đấy. Có thể nói đấy lại là hai chữ vô duyên. Nhờ đọc được bài chữ Hán trên bức tranh mà tôi tra ra được đấy là một khúc ca của Bắc Tông: khúc Phổ trần sát.
Khổ hải trung nghiệp thủy di mang
Ái hà gian hắc lưu hoảng dạng
Thùy thí na từ bi tuệ quang
Tế trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ hàng, chiêu linh huống
Khúc Phổ trần sát có nghĩa:
Trong bể khổ nước nghiệp mênh mang
Trên dòng Ái hà luồng nước đen sâu sóng sánh
Ai thí cho bao nhiêu ánh sáng của từ, bi, tuệ
Vượt qua trầm luân vô biên vô lượng
Hiển từ vượt qua, chiêu linh hồn ban cho
Giờ đây tôi thấy bức tranh mang ý nghĩa sắc nét: một Khổ hải đồ. Tôi tìm thấy trên mạng một bức Khổ hải đồ với bài Phổ trần sát viết ở trên. Bố cục của bức Khổ hải đồ có điểm gì đấy tương đồng với bức Chùa Thiên Mụ. Cũng một con thuyền trên một dòng sông nước, một bến bờ và khúc Phổ trần sát. Tất nhiên bức Chùa Thiên Mụ có tính nghệ thuật cao hơn, thâm ý hơn.
Dòng Hương trong bức Chùa Thiên Mụ giờ đây trở thành dòng Ái hà. Ái là một dạng thức của Thất tình. Trong kinh điển Phật giáo, Ái như một dòng sông. Con người nổi chìm nơi đấy, là nghiệp, là bể khổ. Bên kia bến bờ là giải thoát, vượt khỏi kiếp trầm luân. Dòng sông trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí không còn thơ mộng, đặc điểm cố hữu của dòng Hương, mà với những mảng vàng nhìn như một dòng sông dữ dằn như muốn nhấn chìm con thuyền mong manh đang tìm tới bến. Chùa Thiên Mụ trở thành bờ bên kia của dòng Ái hà, nơi cập bến qua bể khổ. Nhưng trong bức tranh của Nguyễn Gia Trí, bờ giải thoát - chùa Thiên Mụ đấy nhìn sao thật ảm đạm và phôi pha. Nơi đấy không còn tình. Sự sống khô héo và tàn phai. Tôi nhớ tới bức tượng La Hầu La Đa ở chùa Tây Phương: khô héo, mỏi mệt và hoài nghi. Con đường tới cõi Phật, vốn đã khó khăn và gian nan, nhưng cái đích, nơi đến, nơi cập bờ đấy có thật là viên mãn, hay đấy cũng chỉ là ảo ảnh của một thực tại đầy khiếm khuyết và đấy cũng chỉ là một chốn phôi pha? Tôi nhớ tới câu kệ của Thiền sư Quảng Nghiêm: Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ / Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Thoát khỏi tịch diệt rồi mới nói về tịch diệt, sinh vào cõi vô sinh rồi mới bàn về vô sinh. Ở chốn trần sát nói về giải thoát không khéo chỉ là lộng ngôn.
Chùa Thiên Mụ và sông Hương chắc không phải là một chủ đề mới. Khổ hải cũng không phải là một chủ đề mới. Kết hợp hai chủ đề không mới thành một cảm hứng mới và đẹp. Phải chăng đó là điều kỳ diệu của nghệ thuật?