Bài mới

Nhận xét mới

Ý kiến khác của một người Mỹ về vấn đề Cải cách Giáo dục Bậc cao ở Việt Nam (II)


Phần I


10. Một vài khuyến nghị.

Nếu như tôi được yêu cầu đóng góp một số lời khuyên cho chính phủ Việt Nam để nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao, thì chúng sẽ khác hẳn những gì mà Viện Ash hay Viện Hàn Lâm Quốc Gia Hoa Kỳ đã đưa ra. Những khuyến nghị của tôi là như sau:

1. Tăng lương cho các giảng viên, giáo sư, và các nghiên cứu viên để có thể tiếp cận được với mức lương ở khu vực tư nhân.

2. Cấp học bổng cho sinh viên ở bậc cao học (Master) trong các ngành toán hoc và khoa học.

3. Cấp kinh phí cho các chương trình mùa hè dành cho các sinh viên tài năng (ví dụ như những sinh viên có kết quả tốt trong các kỳ thi Olimpic toán).

4. Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt dành cho nữ sinh, đặc biệt là tại các trường trung học và đại học, để khuyến khích nữ giới lựa chọn nghề nghiệp trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. (Quỹ Kovalevskaia dành những phần thưởng cho các nhà khoa học nữ có trình độ cao, nhưng lại không có một chương trình tương tự như vậy dành cho nữ giới ở trình độ thấp hơn).

5. Cấp kinh phí để xây dựng các chương trình đặc biệt dành cho các dân tộc thiểu số, để họ có thể tham gia trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật. Cả học sinh nữ lẫn các học sinh người dân tộc thiểu số đều cần được khuyến khích tham gia và các hoạt động như các kỳ thi Olimpic toán. (Vào năm 2007, Quỹ Kovalevskaia đã cấp kinh phí cho một cậu bé người dân tộc miền núi thiểu số ở Peru tham gia vào cuộc thi IMO tại Hà Nội, và cậu đã dành được huy chương bạc.)

6. Cố gắng vận động, gây ảnh hưởng đối với các công ty kỹ thuật cao đa quốc gia để xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển (không chỉ có các công việc kinh doanh, marketing, kiểm nghiệm và sản xuất) tại Việt Nam, để từ đó có thêm nhiều công việc đòi hỏi trình độ cao trong các khu vực tư nhân, tạo thêm cơ hội cho sự sáng tạo của các nhà khoa học trẻ Việt Nam. Hiện tại thì gần như tất cả các nghiên cứu khoa học đều chỉ do nhà nước hỗ trợ chứ không có sự tham gia của khu vực tư nhân. Nếu như Intel có thể xây dựng các cơ sở R&D tại Malaysia và Phillippines thì tại sao nó không thể làm như vậy tại Việt Nam?

7. Đưa ra một loại thuế mới đối với các công ty ở khu vực tư nhân - kể cả với các công ty đa quốc gia - để chỉ sử dụng vào các hoạt động của chính phủ nhằm hỗ trợ giáo dục và nghiên cứu khoa học. [27]

8. Đừng phung phí tiền của chính phủ Việt Nam bằng cách chi trả cho các cái gọi là “chuyên gia” Hoa Kỳ, hay chi trả cho các trường đại học của Mỹ để họ dựng lên một đại học ở Việt Nam.

Mục đính của các khuyến nghị 7 và 8 là để cho chính phủ Việt Nam có thêm kinh phí từ các khuyến nghị 1, 2, 3, 4, 5. Khác với bản báo cáo Vallely, cho rằng không cần thiết phải tăng thêm kinh phí tài trợ cho giáo dục bậc cao ở Việt Nam, tôi cho rằng một yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao chắc chắn PHẢI LÀ tài chính.

11. Kết luận.

Một vài nhà bình luận Việt Nam mô tả tình trạng hiện nay bằng các ngôn từ của ngày tận thế, và tuyên bố rằng các vấn đề của giáo dục bậc cao đã trở nên trầm trọng đến mức cần phải có sự can thiệp từ phía bên ngoài - bởi những người nước ngoài - mới có thể dẫn đến cải cách. Một số thậm chí còn tin tưởng rằng vấn đề này chỉ có thể được giải quyết nếu như toàn bộ hệ thống kinh tế và chính trị được thay đổi - chắc với ý là bằng một mô hình nào đó theo mô hình tư bản phương tây.

Trong tiếng Anh, có một câu nói là: “Hãy coi chừng những ước muốn của mình.”[28] Lý do (thường không nói đến) là bởi vì “anh sẽ lĩnh đủ nó.”[29] Khi tôi ở Mátxcơva vào những năm 1970 và 1980, tôi thấy rất nhiều trí thức đầu đàn của Liên Xô chán ghét hệ thống xã hội chủ nghĩa mà họ đang sống và chỉ muốn được thấy nó bị thay thế bởi một hình thức kiểu phương Tây cả về kinh tế và chính trị. Họ thường tỏ ra rất ngưỡng mộ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và họ thường không hiểu được những khó khăn và thất bại của hệ thống Mỹ.

Bây giờ thì họ đã lĩnh đủ những gì họ mong đợi - Hệ thống xã hội chủ nghĩa Xô Viết đã sụp đổ và được thay thế bởi một dạng thô sơ của chủ nghĩa tư bản. Nhưng những hệ lụy đối với nghiên cứu khoa học và giáo dục là hết sức tai hại. Nước Nga bây giờ không còn là nơi mà khoa học, toán học và giáo dục bậc cao có tầm cỡ thế giới. Gần đây, Math Reviews[30] có nhờ tôi đọc nhận xét một bài báo đăng bằng tiếng Nga về mật mã (điều này rất hiếm xảy ra vì thời gian gần đây chẳng có gì được đăng bằng tiếng Nga cả). Danh sách các tài liệu trích dẫn của nó đều là các bài đã cũ từ 15 năm trước - một điều rất lạ so với một ngành toán ứng dụng đang phát triển rất nhanh chóng - và “ý tưởng mới” của tác giả đã được phát triển và công bố từ cuối những năm 1990. Trình độ của tác giả giống như của một ai đó từ một nước Thế Giới Thứ Ba chậm phát triển. Một đất nước mà trước kia từng là đối thủ cạnh tranh khoa học của nước Mỹ thì ngày nay chỉ là một vũng nước đọng.

Nhiều năm trước Hoàng Tụy đã giải thích cho tôi rằng khác với một vài nước khác (chắc là ông đang nghĩ chủ yếu đến Trung Quốc), từ khi giành độc lập năm 1945, Việt Nam đã tránh được nhiều sự đổi hướng đột ngột - những thay đổi đã gây nên rất nhiều gian khổ ở các nơi khác trên thế giới. Người Việt Nam, theo quan sát của ông, thích những sự thay đổi vừa phải và giải quyết những bất đồng một cách êm thấm, sao cho không dẫn đến những sự đàn áp hay làm nhục đối phương. Nếu như cái nhìn này về cách thực hiện cải cách ở Việt Nam vẫn còn chính xác thì rất có thể nâng cao chất lượng giáo dục bậc cao ở Việt Nam mà vẫn không đoạn tuyệt với hệ thống xã hội chủ nghĩa, không sỉ nhục những người được đào tạo tại Liên Xô các nước khối Đông Âu cũ, và không giao phó tương lai của Việt Nam cho những người được gọi là “chuyên gia” Mỹ.



[1] http://www.hks.havard.edu/innovations/asia/Documents/HigherEducationOverview112008.pdf

[2] http://home.vef.gov/download/Report_on_Undergrad_Educ_V.pdf

[3] http://www.viet-studies.info/Neal_Koblitz_article-vietnamese.pdf

[4] A mathematical visit to Hanoi, The Mathematical Intelligencer, 2 (1979), no. 1, pp. 38-42

[5] Recollections of mathematics in a country under siege, The Mathematical Intelligencer, 12(1990), no.3, pp 16-34.

[6] http://ashinstitute.havard.edu/asia/staff

[7] Điều này được xem như một tội ác chống lại loài người theo Điều 7(d) của Bộ luật của Toà án Tội ác Quốc tế

[8] Master of Public Administration (ND).

[9] “fellows” (ND)

[10] N. Koblitz, Random Curves: Journeys of a Mathematician, Springer-Verlag 2007. Chương 9 và 10 được dành cho Việt Nam.

[11] Bán phá giá, hàng ế (ND)

[12] M.A. Overland, American college raise the flag in Vietnam, The Chronicle of Higher Education, 15/05/2009, pp. A1, 22-24

[13] Houston Community College (ND)

[14] Research Experiences for Undergraduates (ND).

[15] Điều này được hiểu là xu hướng các giáo viên Mỹ thường cho điểm sinh viên cao hơn ngày trước ở cùng mức công việc được giao. Sự lạm phát điểm số xuất hiện tràn lan ở các trường cấp hai, đồng thời nó lan rộng ở các cấp đại học trong hầu hết các trường đại học, đặc biệt là các trường phi khoa học. (grade inflation).

[16] Khái niệm này được hiểu như là hiện nay việc thực hành ở các trường phổ thông và đại học ở Mỹ trong các khoá học trở nên ngày càng dễ hơn, thông thường là bằng cách cho qua các ví dụ khó và có ít bài kiểm tra hơn.(dumbing down).

[17] anti-hyperactivity (ND).

[18] Theo tờ The Chronicle of Higher Education (24/08/12009), trong số các sinh viên hệ 4 năm nhập học năm 2001, chỉ có 56.1% tốt nghiệp vào năm 2007.

[19] "brain drain" (ND).

[20] post-secondary

[21] Mideast

[22] internship

[23] Tại Mỹ, trong những năm gần đây, những người quản lý tại các trường đại học liên tục yêu cầu các giáo sư trong các lĩnh vực ứng dụng lấy bằng sáng chế. Nếu như những bằng sáng chế này có lợi nhuận thì trường sẽ được hưởng một phần không nhỏ. Tuy nhiên, chỉ mãi đến gần đây thì mới có nhiều giáo sư đại học có bằng sáng chế, và ngay cả tại thời điểm hiện tại thì đa số các nhà khoa học ở các trường đại học chưa bao giờ có một bằng sáng chế nào. Ví dụ như mặc dù đã làm việc trong lĩnh vực mật mã học từ 25 năm nay, tôi không có một bằng sáng chế nào.

[24] Trong bản quảng cáo dành cho nhân viên tương lai, Intel Việt Nam đôi khi tỏ ra mập mờ về tính chất công việc. Trên trang Facebook “Việc làm tại Intel Việt Nam”, chúng ta đọc được “Tại Intel, bạn sẽ có đươc những cơ hôi để khẳng định trí tuệ của mình khi làm việc, phát triển và sáng tạo cùng với những nhân viên giỏi nhất trên thế giới tại một môi trường làm việc sáng tạo và có tính chất quốc tế.” Chú ý rằng cùng một từ “sáng tạo” được sử dụng đến hai lần trong cùng một câu. Tuy nhiên, từ các thông tin trên chính trang web của Intel về những hoạt động dự kiến của nó ở Việt Nam, rõ ràng là câu nói trên tỏ ra vô nghĩa.

[25] Email đề ngày 2 tháng 10, 2009 của Gail DunDas từ Nhóm Liên Lạc Toàn Cầu của Công ty Intel – Intel Corporation Global Communications Group.

[26] Tôi làm việc trong ban xét duyệt hồ sơ sinh viên sau đại học của khoa, với trách nhiệm phải đọc và đánh giá hàng trăm hồ sơ đăng ký vào chương trình Ph.D ngành toán của đại học Washington, Seattle. Trong hơn ba năm qua, chúng tôi đã có khoảng 6 ứng viên tự Việt Nam, trong đó có hai người được chấp nhận. Tỷ lệ được chấp nhận này tương tự như đối với các nước khác; ví dụ như khoảng một phần ba trong số 90 ứng viên Trung Quốc đăng ký trong cùng khoảng thời gian 3 năm nói trên được chấp nhận.

[27] Một phương án khác với hình thức đánh thuế là một hệ thống các “người tài trợ tình nguyện” giống như những gì mà Viện Toán học Hà nội sử dụng để thu thập kinh phí từ các thành viên của viện trở về từ các nước tư bản. Tức là, với mỗi công ty, nhà nước sẽ tính toán một khoản tiền tương ứng mỗi năm, và công ty đó sẽ được yêu cầu phải thực hiện một khoản tài trợ tình nguyện cho phát triển khoa học và giáo dục. Số tiền yêu cầu và số tiền được tài trợ sẽ được công bố, và các công ty tài trợ đầy đủ số tiền sẽ nhận được nhiều thiện cảm và sự hợp tác cả ở cac kênh chính thức cũng như không chính thức so với các công ty khác với số tiền tài trợ không đầy đủ.

[28] Be careful what you wish for. (ND)

[29] Because you might get it. (ND)

[30] Một hệ thống điểm các bài báo thuộc lĩnh vực toán học của hội toán học Mỹ (ND)

7 comments:

  1. Bài này quá dài, đọc mệt nghỉ bác ạ. Hơn nữa, vấn đề đọc hiểu cũng rất là gay cấn trên mạng. “Hãy coi chừng những ước muốn của mình.” Tôi thích câu này.

    ReplyDelete
  2. Cách phân tích cùng nhận xét và các dẫn dụ minh chứng của đồng chí tác giả này chắc chắn làm một số học giả(bị gán "bảo thủ") VN nhẹ nhõm. Chí ít thì cũng được nghe một tiếng nói khách quan, phi chính trị, phi lợi nhuận.
    Song chưa đủ sâu, thực tế, dù có rộng, thẳng thắn và căn bản.
    - VN từng có một nền văn hóa và giáo dục đáng nghiêng mình chiêm ngưỡng.
    - Nền giáo dục Hoa Kỳ cũng có nhiều vấn đề, thậm chí cũng dở ẹt.
    - Các con số thống kê phát minh, sáng chế, các công trình nghiên cứu của VN trên diễn đàn k.h thế giới không là quan trọng.
    - Cảnh giác với các lớp chuyên tu của Hoa Kỳ dành cho các sinh viên Thế giơi thứ 3.
    - Kinh tế thị trường đã thủ tiêu một nền giáo dục tiên tiến của CCCP.
    - Các trường đại học Mỹ khuyến khích và nâng đỡ các phát minh, sáng chế vì mục tiêu lợi nhuận. (ai chẳng thế!hehe)
    - Và cuối cùng “Báo cáo Vallely rõ ràng là đã xuyên tạc và bóp méo những kinh nghiệm của Intel để phục vụ cho mục tiêu chính trị của mình”.

    Nhưng tiếc rằng tác giả không sinh sống và có anh, em, con cháu đang làm việc, học tập ở VN.
    Cái ví dụ về Intel được đưa ra có vẻ để cho thấy sự hai mặt đểu cáng của lũ cá mập ăn thịt người, “…việc tuyển người tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy “chất lượng tồi tệ của giáo dục đại học.” “Intel xác nhận rằng đây là kết quả tồi tệ nhất mà họ đã gặp phải tại tất cả các quốc gia mà họ đã đầu tư.” và rồi “…chúng tôi tin rằng lực lượng nhân công kỹ thuật cao của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh ở mức độ toàn cầu.”
    2 ý kiến này (tác giả cho thấy) có vẻ mâu thuẫn nhau (ngầm chỉ Viện Ash phiến diện) nhưng tôi cho rằng đó là có thực. Ý trên chắc chắn là có không chỉ trong trường hợp của Intel, nó cũng chỉ ra giáo dục bậc cao của VN đang ở đâu, ý sau khẳng định lao động VN dùng được, không phải “ai đó” của Intel nói láo hoặc Vallely viện dẫn cuội.
    Dĩ nhiên các nhà hoạch định sách lược giáo dục VN chẳng dại tin ngay cái báo cáo của Viện Ash và các khuyến nghị cải tổ nền giáo dục VN của tác giả cũng không mới, điều quan trọng là để thực thi những cải cách đủ “đô” trong giai đoạn này là bất khả. Bởi đơn giản những người có tâm huyết, chính trực, tài năng … chỉ là những người đưa ý kiến và những người có quyết định cuối cùng thì nghễnh ngãng nặng.
    Ô hô, có lý thuyết Random Curves nào khác không?
    Cảm ơn Đông A và tác giả bái viết.

    ReplyDelete
  3. Đ.A có thể cho biết Cái báo cáo nghiên cứu của Viện Ash (về giáo dục đại học VN) này là nó tự làm hay có ai đặt hàng?

    ReplyDelete
  4. Tôi không biết bản báo cáo Vallely là do chính phủ đặt hàng hay tự viện Ash làm để cung cấp phân tích, đánh giá cho các tổ chức hợp tác về giáo dục Việt Mỹ. Thực ra bản báo cáo Vallely này đã thu thập số liệu sai (bảng 1 trong bản báo cáo) do các tác giả của bản báo cáo có trình độ khả năng hạn chế và thiếu hiểu biết thực tiễn về khoa học Việt Nam, nhưng rất đáng tiếc các nhà báo Việt Nam không có trình độ và không có khả năng nhận ra điểm sai này (số liệu sai đã xảy ra ở bản báo cáo trước đấy cũng của viện Ash và đã được báo chí Việt Nam truyền tải đúng số liệu sai này)

    ReplyDelete
  5. Bác có ý kiến gì khi Tuần Việt Nam đăng lại nguyên văn bài này mà lại dẫn nguồn từ Diễn đàn của Bộ Giáo dục và Đào tạo???

    Link: http://www.tuanvietnam.net/2009-10-21-tranh-luan-sau-bao-cao-cua-harvard-ve-gd-vn

    ReplyDelete
  6. Không có bất cứ ý kiến gì. Tôi cũng chỉ là nguồn thứ cấp, tuy ở trên internet, có lẽ, tôi là người đăng bài viết này đầu tiên.

    ReplyDelete
  7. Không thấy bác dẫn nguồn nên trước đấy em cứ tưởng bác là tác giả của bản dịch này.

    ReplyDelete