Bài mới

Nhận xét mới

"Khuê tảo" đâu chỉ là văn chương

Nhân đọc bài trên Thể thao & Văn hóa về GS Bùi Duy Tân, trong đó có nhắc tới hai chữ "khuê tảo". Có lần tôi đã đề cập tới chuyện này và không nhớ rõ ai là người phát hiện chuyện này đầu tiên. Vì vẫn còn băn khoăn về người phát hiện, nên tôi thử Google tra. Số tôi rất may là tìm ra bài viết "Khuê tảo" đâu chỉ là văn chương của Nguyễn Đăng Na. Bài viết của Nguyễn Đăng Na rất hay và giúp tôi không những hiểu rõ chuyện này mà còn hiểu chính xác hai chữ "khuê tảo": văn thơ thư họa của vua làm. Để chắc chắn tôi đã kiểm tra lại Hán ngữ từ điển trên mạng và nghĩa đúng như Nguyễn Đăng Na đã viết.

Tôi copy lại bài viết của Nguyễn Đăng Na để làm tư liệu (chữ tảo thiếu bộ thảo)

"Khuê tảo" đâu chỉ là văn chương

NGUYỄN ĐĂNG NA

Hoàng Việt thi văn tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích được khắc in năm Ất Dậu, niên hiệu Minh Mệnh thứ sáu 1825. Trong Quyển Một có bài của Lê Thánh Tông mà nhóm Lê Quý Đôn ([1]) đã dịch với nhan đề Ta ngồi trong Chính điện, hồi tưởng xưa nay vua sáng, tôi lành và cơ nghiệp thịnh vượng của nước nhà ngày nay ngẫu thành bài thơ. Sáu cụ trong nhóm Lê Quý Đôn dịch gồm: Lê Thước - người Lạc Thiên, La Sơn, Hà Tĩnh, đỗ Cử nhân năm 1918 lúc 28 tuổi; Hà Văn Đại - người Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, đỗ Phó bảng năm 1919 lúc 27 tuổi; Trịnh Đình Rư - người Định Công, Thanh Trì, Hà Nội, đỗ Cử nhân năm 1915 lúc 19 tuổi; Vũ Đình Liên - người Hải Dương, sinh 1913, nhà thơ, nhà nghiên cứu, dịch thuật. Còn hai cụ nữa chúng tôi chưa rõ tiểu sử. Đó là Nguyễn Sĩ Lâm, Trần Lê Hữu. Bài thơ Ngẫu thành nói trên của Lê Thánh Tông trong đó có hai chữ khuê tảo [奎? 澡?] được nhiều người quan tâm. Nguyên văn bài thơ như sau:

Cao Đế anh hùng cái thế danh,

Văn Hoàng dũng trí phủ doanh thành.

Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo,

Võ Mục hung trung liệt giáp binh.

Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển,

Nhị Thân phụ tử bội ân vinh.

Hiếu tôn Hồng Đức thừa phi tự,

Bát bách Cơ Chu lạc trị bình.

Người đầu tiên giải thích hai chữ khuê tảo trong câu "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" có lẽ chính là Nhóm LQĐ. Các cụ viết: "Khuê tảo: quê hay khuê là sao khuê, tảo là cỏ tảo, tượng trưng cho văn chương" (Hoàng Việt thi văn tuyển, Sđd, tr. 22). Nhưng rồi, người ta dần dần quên mất cách dịch của Nhóm LQĐ. 35 năm sau, PGS. Bùi Duy Tân trong báo Văn nghệ số 33 (ngày 14-8-1993) nhắc lại cách dịch "khuê tảo" của Nhóm LQĐ. PGS. Bùi Duy Tân khẳng định cách giải thích khuê tảo của Nhóm LQĐ là "Khuê tảo: văn chương" (Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập một, Nxb Giáo dục, 1999, tr. 97). Trên cơ sở đó, PGS. Bùi Duy Tân nhắc nhở ít nhất hai lần:

- "Khuê tảo: chỉ văn chương. Nhiều từ điển lớn của Trung Quốc cũng giải nghĩa Khuê tảo có một nghĩa là văn chương, là thơ văn" (Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Tập hai, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr. 238).

- "Văn chương: dịch từ Khuê tảo... Khuê tảo: chỉ văn chương. Nhiều từ điển lớn của Trung Quốc cũng giải nghĩa Khuê tảo có một nghĩa là văn chương, là thơ văn. Nhân đây xin đính chính..." (Hợp tuyển Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ X-XIX), Tập một, Nxb Giáo dục, 2004, tr. 517).

Cuối cùng, PGS. Bùi Duy Tân khẳng định vai trò dịch của Nhóm LQĐ: "Các vị túc nho quá cố trong nhóm dịch chú Hoàng Việt thi văn tuyển (sđd): Lê Thước - Hà Văn Đại - Trịnh Đình Rư - Nguyễn Sĩ Lâm - Trần Lê Hữu đã dịch đúng cả nghĩa và thơ" (Hợp tuyển..., tr. 517. Riêng tên cụ Vũ Đình Liên không có. Phải chăng PGS. Bùi Duy Tân bỏ sót ?). Thế là, hai chữ khuê tảo sau 50 năm đã trở về đúng vị trí trong bản dịch của Nhóm LQĐ: "Khuê tảo: tượng trưng cho văn chương".

Tuy nhiên, có hai chữ rất quan trọng khi Nhóm LQĐ dịch mà PGS. Bùi Duy Tân lại quên mất. Đó là hai chữ: tượng trưng! Các cụ rất thận trọng, dịch từng chữ: "Khuê tảo: tượng trưng cho văn chương". Theo chúng tôi, tượng trưng cho văn chương khác với đối tượng trực tiếp về văn chương. Thế thì, cứ theo chỉ dẫn của PGS. Bùi Duy Tân về "Từ điển lớn của Trung Quốc" xem có tìm thấy hai chữ khuê tảo có nghĩa là văn chương không?

Trước hết là Từ nguyên (Thương vụ Ấn thư quán, in năm 1938. Từ điển này dài 1830 trang nhưng không có từ mục Khuê tảo, mà chỉ có từ mục Khuê (tr. 393) và từ mục Tảo (tr. 1305). Từ điển thứ hai: Từ hải, in lần thứ hai năm 1989 (xuất bản lần đầu 1979), Thượng Hải từ thư xuất bản xã, dài tới 2216 trang (chữ rất nhỏ, khổ to, mỗi trang chia làm ba cột), vẫn chẳng có mục từ Khuê tảo nào cả, chỉ có từ mục Khuê (tr. 647) riêng và từ mục Tảo riêng (tr. 618).

Vậy thì, tìm từ điển lớn hơn nữa xem sao? Nhưng may, chúng tôi bỗng nhớ lại lời chú giải hai chữ Khuê tảo do Tổ phiên dịch Viện Sử học Việt Nam dịch và chú giải, in năm 1961 trong Lịch triều hiến chương loại chí. Tổ phiên dịch gồm năm cụ là: Nguyễn Trọng Hân, Trịnh Đình Rư, Cao Huy Giu, Trương Văn Chinh, Nguyễn Mạnh Duân và cụ thứ sáu hiệu đính là Đào Duy Anh. Phần Văn tịch chí có dịch Bài tựa Ngự chế về Quỳnh uyển cửu ca. Câu ấy như sau: "Thổ hồng nghê chi khí, quang khuê tảo chi văn". Các cụ dịch: "Nhả khí rực rỡ như cầu vồng, rạng vẻ sáng tươi của khuê tảo" ([2]); rồi chú: "Khuê tảo: văn chương của vua làm". Câu chú giải này cực kì quan trọng về nghĩa của hai chữ khuê tảo. Nhưng buồn thay, hầu như mọi người đã quên mất ý nghĩa của hai chữ khuê tảo và quên béng luôn cả tên nhóm dịch giả. Chúng tôi tiếp tục truy tìm loại từ điển "đại" lớn hơn loại "từ điển lớn". Lại may lần thứ hai: Hán ngữ đại từ điển Trung Hoa, có hẳn mục từ Khuê tảo. Soạn giả viết rõ: "Khuê tảo: chỉ đế vương thi văn thư hoạ" ([3]); nghĩa là, khuê tảo: chỉ thơ, văn, thư, hoạ của đế vương. Té ra, 48 năm trước, Tổ phiên dịch Viện Sử học đã nói rõ ràng và chuẩn: "Khuê tảo" là văn chương của vua làm. Và trước đó 51 năm, Nhóm LQĐ cũng đã cảm nhận đúng về "khuê tảo": tượng trưng cho văn chương. Khi dịch từng chữ, các cụ bao giờ cũng thận trọng, không bao giờ nói đại khái, càng không bao giờ bịa đặt. Chúng ta chẳng nên bỏ rơi, bỏ quên từng chữ dịch của các cụ (trong Nhóm LQĐ hoặc Tổ phiên dịch Viện sử học VN), khiến người đọc hiểu chưa đầy đủ tinh thần bản dịch.

Vậy là, khuê tảo chỉ văn chương của vua làm. Điều này không phải ngẫu nhiên mà Lê Thánh Tông hồi tưởng xưa nay vua sáng, tôi lành và cơ nghiệp thịnh vượng của nước nhà khi nhận xét Nguyễn Trãi: "Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" và cũng không phải ngẫu nhiên mà vua Lê Thánh Tông có lời chú về Ức Trai ngay trong bài thơ đó: "Thừa chỉ Quan phục hầu Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, đậu khoa bảng từ đời Hồ. Khi Thánh Tổ mới mở cơ nghiệp, theo về nơi Lỗi Giang, bên trong thì trù tính phương lược, bên ngoài thì thảo văn thư chiêu dụ các thành, văn chương giúp nước, rất được tín nhiệm" ([4]). Chính vì thế, Nguyễn Trãi mới thay mặt Thái Tổ Cao Hoàng Đế thảo dụ Quân trung từ mệnh và tuyên bố Bình Ngô đại cáo. Vĩ đại thay Ức Trai!


Trung Kính, Hà Nội, ngày 15 tháng Giêng, năm 2009

N . Đ . N


[1] Hoàng Việt thi văn tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích, tập III, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr. 21.


[2] Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Tập IV, Nxb Sử học, 1961. tr. 75.


[3] Hán ngữ đại từ điển, Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, Tập một, tr. 3284.


[4] Hoàng Việt thi văn tuyển, Sđd, tr. 22.


3 comments:

  1. Nhà cháu thấy anh sao Khuê thường dùng tượng trưng cho văn chương. Còn anh Tảo cũng rứa thôi. Cho nên xưa, người ta hay nói mấy anh học trò đi học ở Phán thủy là mấy anh đi hái Cần hái Tảo. Trong 12 cái biểu tượng (thập nhị chương) trên trang phục của thiên tử, ngòai những Phủ, Phất... có Khuê, Tảo để tượng trưng cho văn chương. Có nhẽ vì thế mà từ điển Tầu người ta nói Khuê Tảo là nói về văn chương của Thiên tử chăng?
    Theo thiển ý của cháu, thì nói Khuê, Tảo với ý là văn chương là chuẩn rồi. Bên thì cụ Ức Trai giỏi văn chương, đằng thì ông Vũ Mục tài quân sự, một văn một võ, đối nhau chí chát, nghĩa lí thế là thông rồi, bàn kĩ ra nào là văn chương thiên tử... có vẻ lại bất ổn, mông lung... Thế thì câu "Ức Trai... quang khuê tảo" nghĩa ra làm sao? Chả nhẽ là lòng ông Ức Trai này sáng rõ cái tượng trưng cho văn thiên tử sao?
    Đọc xong bài cụ Na, nhà cháu thấy thậm là hồ đồ.
    Bác Đông A tài cao nhiều đấu, có cao kiến gì xin chỉ bảo thêm cho cháu ạ!

    ReplyDelete
  2. Tôi nghĩ ở đây có mấy vấn đề:
    1. Có từ điển nào của Trung Quốc giải nghĩa "khuê tảo" là văn chương chung chung như Bùi Duy Tân từng nói không?

    Tôi không thể biết được hết các từ điển, nhưng chuyện Từ nguyên, Từ hải không có mục từ "khuê tảo", đến Hán ngữ đại từ điển mới có mà lại giải thích là văn chương của đế vương, thì thông tin mà Bùi Duy Tân đưa ra rất đáng ngờ.

    2. Văn chương của vua tất nhiên là văn chương, nhưng văn chương chung chung chưa chắc đã là văn chương của vua. Câu thơ của Lê Thánh Tông, bây giờ thì tôi hiểu là Lê Thánh Tông chỉ nói đến phần văn chương chính trị của Nguyễn Trãi thôi như Quân trung từ mệnh, Bình Ngô đại cáo, không hàm ý Ức Trai thi tập hay Quốc âm thi tập là phần văn chương mang tính cá nhân. Câu "ức Trai tâm thượng quang khuê tảo" tất nhiên có nghĩa là: lòng Ức Trai sáng rõ văn chương chính trị. Cũng nghĩa này mà Lê Quý Đôn nhận xét Nguyễn Trãi "viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời". "viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời" không đồng nghĩa với làm thơ, soạn sách địa lý tài giỏi hơn hết mọi thời.

    ReplyDelete
  3. Tình cờ hôm nay em mới được đọc bài viết này và vỡ lẽ ra nhiều. Ngày cấp 2 cũng ham học văn và thích Nguyễn Trãi nên rất nhớ câu : Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo. Đến hôm nay mới hiểu rõ vấn đề. Hình như mục này SGK có chú thích bị sai? Ngày trước em hiểu rằng : tấm lòng Ức Trai sáng như sao Khuê.

    ReplyDelete