Bài mới

Nhận xét mới

Đây là nơi Pushkin bắt đầu cuộc lưu đày

Đây là nơi Pushkin bắt đầu cuộc lưu đày
Cũng là nơi Lermontov lưu đày kết thúc
Đây là nơi cỏ núi đồi hương thơm phức
Chỉ một lần tôi được thấy mà thôi

Dặc huyền linh bên hồ nước rợp trời
Đúng giờ khắc trước chiều buông nghiệt ngã
Lóe ánh mắt cơn khát thèm chưa đã
Của người tình bất tử Tamara

1927, Kislovodsk
Anna Akhmatova

Pushkin và Lermontov đều từng bị lưu đày ở Kavkaz. Tiểu thuyết Những kẻ thiện tâm có hẳn một chương viết về vùng Kavkaz rất chính xác về thông tin. Tamara là một nhân vật có thật trong lịch sử, là nữ hoàng của Gruzia. Nhưng Tamara ở bài thơ này là một nhân vật truyền thuyết, một công nương, những người tình của bà sau một đêm hoan lạc đều bị giết chết. Lermontov có một bài thơ viết về Tamara, dường như đã đem hình ảnh truyền thuyết hòa vào nhân vật lịch sử. Các tài liệu lịch sử cho thấy nữ hoàng Tamara của Gruzia hoàn toàn không có liên quan gì tới Tamara trong truyền thuyết.

Здесь Пушкина изгнанье началось
И Лермонтова кончилось изгнанье.
Здесь горных трав легко благоуханье,
И только раз мне видеть удалось
У озера, в густой тени чинары,
В тот предвечерний и жестокий час —
Сияние неутоленных глаз
Бессмертного любовника Тамары.

1927, Кисловодск
Анна Ахматова

10 comments:

  1. Truyện ngắn Đêm Ai cập của Puskin có nhân vật nữ hòang Ai cập giông giống như bác kể về Tamara. Bài thơ trong truyện hay tuyệt. Tiếc rằng dài quá không thể chép ra đây được.

    ReplyDelete
  2. Bac Dong-A,
    Is this poem a warning alert or just a sweet requiem?
    Could you please translate the poem into Vietnamese with the original version for me?
    Really like your tone, voice in the last three entries.
    It's not a tone, a voice you used to "rise" before in the entries about Catholics, Cong Dinh,... any more. :-)
    Thanks so much for such the beautiful photos and poems.

    ReplyDelete
  3. Chị So, Đêm Ai Cập của Pushkin trên mạng có sẵn rồi. Lúc ban đầu Pushkin định đặt tên truyện là Cleopatra. Đây là bài thơ trong đấy, bản dịch của Thủy Nguyên:

    Lâu đài rực sáng. Tiếng đồng ca,
    Tiếng đàn ngân theo tiếng sáo chung hoà.
    Nữ hoàng đấy, mắt đưa cùng tiếng nói
    Làm tưng bừng thêm tiệc lớn nguy nga;
    Những trári tim vươn sát tới ngai vàng,
    Bỗng nữ hoàng nghiêng mái đầu diễm lệ
    Trên chén vàng, dáng trầm lặng nghĩ suy...

    Và tiệc lớn huy hoàng như lặng thiếp ngay đi...
    Khách bặt tiếng và im ngừng giọng hát.
    Nhưng nữ hoàng lại bừng vui khoé mắt,
    Ngầng đầu lên dõng dạc tiếng truyền đưa:
    - Được ái ân cùng ta là diễm phúc các người ư?
    Diễm phúc ấy các ngươi mua được đấy!
    Hãy im lặng nghe lời ta phán dạy:
    Giữa chúng ta, ta muốn xoá rào ngăn,
    Ai sẽ cùng ta mua bán ái ân?
    Ái ân ấy phen này ta sẽ bán;
    Hãy nói đi ai là người sẽ dám
    Mua một đêm ân ái với riêng ta,
    Và trả bằng tính mệnh chẳng kêu ca!
    Nữ hoàng phán – và mọi người kinh hãi
    Và bao nhiêu trái tim rung vì lửa lòng rực cháy...
    Nàng lắng nghe: bối rối tiếng thì thầm,
    Gương mặt lạnh lùng, ngạo nghễ dửng dưng,
    Và khinh khỉnh mắt đưa nhìn mọi kẻ
    Đang ước mơ mình mà nỗi lòng không dám hé...
    Bỗng một người rẽ vội đám đông lên,
    Và tiếp buớc là hai chàng khác nữa.
    Thế hiên ngang, mắt ngời như ánh lửa;
    Nàng đứng lên nghênh tiếp ba người
    Lòng thuận lòng ba tối trắng mua vui
    Và chăn gối cõi âm đang dập dồn gọi họ.
    Và kìa trông các thầy phù thuỷ nọ
    Đã dốc bình định mệnh sẵn trong tay
    Trước mặt bao người đang lặng đứng nơi đây;
    Ba chiếc thăm định kẻ sau người trước.
    Và Phlavi là tên người thứ nhất,
    Đã lừng danh tay tráng sĩ can trường,
    Trong đoàn quân La Mã ruổi muôn phương;
    Từng dạn gót bàn chân nơi trận địa;
    Không chịu nổi nữ hoàng kia ngạo nghễ,
    Quá khinh người vênh váo kiu căng;
    Chàng nhận lời thách thức ái ân
    Như đã nhận, những ngày trên trận tuyến
    Lời thách thức bước vào huyết chiến.
    Tiếp theo chàng: vị hiền triết Critôn,
    Tuổi thiếu niên, nhưng tiếng đã vang đồn,
    Chàng sinh trưởng trong cánh rừng hút gió
    Của Êpiquya(10) và tôn thờ ngưỡng mộ
    Kipriđa(11), Kharít(12) và Amua(13).
    Trông dáng chàng mắt ngắm thảy đều ưa,
    Như một đoá hoa xuân vừa hé nở.
    Người sau rốt, tên chẳng truyền trong sử,
    Trên má chàng mơn mởn chớm lông tơ,
    Trên mắt chàng lóng lánh ánh lửa say mơ,
    Và sức mạnh ái ân dường sóng bể
    Sôi sục dậy trong tim chàng son trẻ,
    Và nữ hoàng kinh ngạc ngước trông chàng.
    - Ôi! Nữ thần của lạc thú truy hoan,
    Ta nguyện sẽ cúi bên người phụng sự
    Như một kẻ trên đời chưa từng có
    Ta tới nơi như một kẻ nữ tỳ
    Trên gối chăn của ân ái mê ly.
    Hãy nghe đây, hỡi nữ thần Kipriđa,
    Các ngươi nữa, hỡi các thần địa ngục,
    Hỡi các thần của Aít(14) hung tà!
    Ta nguyện thề đến tận sáng mai ra
    Cho đến phút bình minh bừng toả sáng,
    Ta nguyện quyết sẽ làm cho thoả mãn
    Những lòng người lửa dục đang bùng lên,
    Ta sẽ làm mê mẩn đến cuồng điên
    Những kẻ chiếm thân ta và sẽ làm sáng rõ
    Những bí quyết ái ân đã từng che giấu họ,
    Với khoái lạc thần tiên mãn nguyện tràn đầy.
    Nhưng hễ chúa bình minh vĩnh cửu đã vung tay
    Tung ánh sáng lên trời cao chói đỏ,
    Ta thề - dưới lưỡi dao thần đao phủ
    Đầu những người diễm phúc sẽ băng rơi.

    ReplyDelete
  4. Bài thơ của Anna Akhmatova có nghĩa như sau:

    Nơi đây cuộc lưu đày của Pushkin bắt đầu
    Và cuộc lưu đầy của Lermontov kết thúc
    Nơi đây hương thơm của cỏ núi non tỏa nhẹ nhàng
    Và chỉ có một lần tôi được thấy
    Cạnh hồ nước trong bóng râm rập rạp của cây huyền linh
    Vào cái giờ trước buổi chiều và nghiệt ngã
    Lóe ánh sáng của cặp mắt chưa thỏa mãn
    Của người tình bất tử Tamara.

    ReplyDelete
  5. Huyền linh là cây thuộc chi Platanus.

    ReplyDelete
  6. Cảm ơn bác Đông A, đọc lại vẫn còn sởn gai ốc :)

    ReplyDelete
  7. Thank you, bac Dong A.
    I like Boris Pasternak too.

    ReplyDelete
  8. Fragment

    ... And it seemed that these were fires
    flying with me until dawn,
    and I did not find out
    what color were these strange eyes.

    And everything around trembled and sang,
    and I did not find out if you were friend or foe,
    if this was winter or summer.

    Anna Akhmatova.

    ReplyDelete
  9. Fragment by Anna Akhmatova, 1959. The English version above was translated by Richard McKane. Another translation by D. M. Thomas:

    Fragment

    And it seemed to me that there were fires
    Flying till dawn without number,
    And I never found out things - those
    Strange eyes of his - what

    Everthing trembling and singing and
    Were you my enemy or my friend,
    Winter was it or summer?

    Bac Dong A, could you please give me the original version in Vietnamese. Thanks again.

    ReplyDelete
  10. "strange eyes oh his - what colour?"

    -- sorry for missing "colour" :-)

    ReplyDelete